Đình
và chùa Hạ Kỳ, trong đình hiện nay còn giữ được 7 đạo sắc phong thời Lê Trung
Hưng, 1 đạo sắc phong thời Tây Sơn và 8 đạo sắc phong thời Nguyễn. Đây cũng là
di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Làng Hạ Kỳ,nằm bên bờ sông Đào, xã Nghĩa
Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định: là vùng đất cổ.Trải qua lịch sử hình
thành và phát triển đến nay nhân dân trong làng vẫn gìn giữ được những giá trị
văn hóa tốt đẹp qua các biểu trưng truyền thống như cây đa, giếng nước, mái
đình, những phong tục, lễ hội, những làn điệu dân ca, dân vũ…
Theo các tài liệu lịch sử, tích phả ở
địa phương, vùng đất Hạ Cơ xưa (làng Hạ Kỳ nay) được hình thành từ thế kỷ thứ X
nhờ công khai phá của Tả tướng Hoàng Thiện Tâm, cháu nội Hoàng Thiện Lương cùng
các gia thần Nguyễn Phụ, Vũ Trụ, Khương Ngãi. Vào đời Trần xuất hiện danh y
Đinh Lôi; khi đến huyện Đại An thấy bệnh dịch hoành hành, ông dùng bài thuốc
gia truyền trị bệnh cứu dân. Nhà vua biết công lao đã ban cho Đinh Lôi trang Hạ
Kỳ làm thực ấp. Tại đây, ông xin miễn trừ sưu dịch, dạy nghề làm thuốc cho dân
và làm nhiều việc hưng lợi cho làng. Là một danh y và có tài về quân sự, ông
được vua ban chức Tham tán Đại tướng quân tham gia cùng Hưng Đạo Đại Vương đánh
bại đế quốc Nguyên - Mông giành độc lập cho dân tộc. Sau khi ông mất, vua Trần
sắc cho dân Hạ Kỳ xây đền thờ phụng và ban cho Đinh Lôi là “Thượng đẳng phúc
thần”. Sau nhiều lần di chuyển do sạt lở đất, năm Tân Hợi niên hiệu Duy Tân thứ
5 (năm 1911) Đền - Chùa Hạ Kỳ được dân làng dựng lại ở giữa làng và tồn tại đến
ngày nay. Trải qua thời gian, Đền - chùa Hạ Kỳ vẫn giữ được nét kiến trúc cổ
độc đáo. Đền có 4 tòa với hệ thống cột đồng trụ, tường hoa tạo thành kiến trúc
nội chữ “đinh”, ngoại chữ “quốc”. Tòa tiền đường 5 gian làm theo kiểu tứ trụ. Ở
bức chạm giữa tiền đường có cảnh lưỡng long chầu nguyệt, cảnh quần long chầu
chữ thọ, ý muốn cho mảnh đất, con người Hạ Kỳ được an khang thịnh vượng. Trong
đền còn giữ được nhiều di vật quý: bộ bát bửu, ba bộ kiệu cổ, bản thần tích,
các đạo sắc phong thần... Ngay sát phía đông đền là Chùa Hạ Kỳ có quy cách
tương xứng với ngôi đền gồm bái đường 5 gian, tam bảo 4 gian. Chùa Hạ Kỳ còn
lưu giữ được cây tháp bằng đá có niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711). Đây là cây
tháp bằng đá có giá trị về nghệ thuật tạo dáng, điêu khắc. Bốn mặt cây tháp có
các họa tiết long chầu, sen quy, người câu cá. Mái tháp hình hoa sen được thu
nhỏ dần từ chân lên đỉnh. Các tầng tháp được chạm lá lật, cúc dây, đan xen có
cả lá hỏa vừa mềm mại, vừa biểu thị sự vươn lên mạnh mẽ. Việc đưa hình tượng
dân gian vào trong ngôi tháp Phật này thể hiện sự hòa đồng của Phật giáo đối
với tâm thức bình dị của người dân, đồng thời thể hiện ước muốn nhân khang vật
thịnh, vạn vật sinh sôi. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc và nhiều
di vật được bảo lưu, ngày 16-1-1995, Bộ Văn hóa - Thông tin đã quyết định xếp
hạng Đền - Chùa Hạ Kỳ là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Từ năm 1995,
dân làng Hạ Kỳ đã khôi phục lễ hội truyền thống được tổ chức vào ngày 10, 11 tháng 3 năm Tân Mão. Ngoài các nghi thức tế, rước kiệu, trong 3 ngày
tổ chức lễ hội có chương trình văn nghệ và các tích trò cổ diễn ra theo một quy
trình khép kín; từ xay xát gạo, kéo dây lấy lửa đến giã bánh dày, thổi cơm thi,
chăn cóc - róc mía đun nước cúng thần. Truyền thuyết kể, khi Đinh Lôi ra trận
đã chỉ đạo quân lính vừa hành quân vừa thổi cơm để đảm bảo thời gian cấp tốc.
Hội thổi cơm thi của làng Hạ Kỳ diễn lại tích đó gồm 2 tốp, mỗi tốp 6 người.
Dẫn đầu tốp thổi cơm thi là một người múa sênh tiền; đi sau mỗi tốp là một
người đầu chít khăn đỏ, trên đầu quấn xà cạp đỏ, quẩy gánh đồ đạc, đòn gánh là
một đoạn tre quấn giấy xanh đỏ. Hai mẩu đòn gánh được tết con rồng bằng rơm.
Nồi cơm được treo trên một cần tre, đi bên là ba thanh niên cầm ba bó củi tre,
lửa cháy bập bùng, chân múa nhịp nhàng, tay điều khiển ngọn lửa và khi đoàn
rước về đến cửa đền thì cơm vừa chín tới. Mỗi nồi cơm thổi 0,3kg gạo tám xoan,
đặc sản của Hạ Kỳ. Hội làng Hạ Kỳ còn giữ được nhiều nét riêng độc đáo, bởi tất
cả các tích trò khi biểu diễn đều được gắn với diễn ca các làn điệu hát trống
quân, cò lả, hát văn, hát chèo… Việc tham gia vào các trò chơi dân gian, các
nghi lễ trong lễ hội Đền - Chùa Hạ Kỳ không chỉ mang yếu tố tín ngưỡng thuần
túy mà còn là hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân địa phương
thể hiện đạo lý tôn kính tổ tiên, tưởng nhớ công lao của các vị anh hùng dân
tộc đã có công xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước mang lại đời sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân.
Việc gìn giữ nét đẹp “Văn hóa làng” ở Hạ
Kỳ trong quá trình đô thị hóa nông thôn đã góp phần bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc, phát huy nội lực của các tầng lớp nhân dân trong phát triển kinh tế, tăng
cường tình làng nghĩa xóm, cùng nhau xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn
minh./.



Các hình ảnh tại lễ hội truyền thống Đình, Chùa Hạ Kỳ